Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa <Đạo>
bầu 瓢
◎ Nôm: 䕯 AHV: biều. Ss đối ứng bu¹ (Mường), lapu² (Rục) [VĐ Nghiệu 2011: 60], kadhợk (Katu) [NH Hoành 1998: 248].
dt. loại cây ăn quả thuộc họ bí, thân leo, quả khô lấy vỏ làm đồ đựng nước, rượu. Túi thơ bầu rượu quản xình xoàng, quảy dụng đầm hâm mấy dặm đàng. (Ngôn chí 9.1, 12.5, 14.2)‖ Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế, ắt đã tròn bằng nước ở bầu. (Trần tình 40.8, 41.1), Ss ở bầu thì tròn ở ống thì dài. Tng.‖ (Thuật hứng 51.3)‖ (Tự thuật 121.4)‖ (Bảo kính 148.1)‖ Một bầu hoà biết lòng Nhan Tử. (Bảo kính 156.5). Sách Luận Ngữ: “Nhan Hồi hiền vậy thay! một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẻm tồi tàn, kẻ khác không kham nổi cảnh khổ đó, mà hồi thì chẳng đổi niềm vui. Hồi hiền vậy thay!” (賢哉回也!一簞食,一瓢飲,在陋巷,人不堪其憂,回也不改其樂。賢哉回也!).
dt. <Đạo> bầu thế giới, bầu trời. đc. sách Vân Cáp Thất Tiêm ghi chuyện thi tồn người nước Lỗ theo học phép tiên, thường đeo bên mình một trái bầu to bằng nửa cái đấu. Bầu ấy là một bảo bối có thể thâu chứa cả trời đất, mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú. Đến tối, ông thường chui vào trong bầu ngủ. (Ngôn chí 19.6)‖ Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại, hai chữ “công danh” biếng vả vê. (Bảo kính 155.3).
dt. khối đất để trồng cây. Nào hoa chẳng bén khí đầm hâm, có mấy bầu sương nhuỵ mới đâm. (Cúc 240.2).
chim xanh 𪀄撑
dt. <Đạo> dịch chữ thanh điểu 青鳥, chim sứ của Tây Vương Mẫu. Dỉ sứ chim xanh đừng chốc lối, bù trì đã có khí hồng quân. (Đào hoa thi 228.3). x. thanh điểu, Phương Sóc, Vương Mẫu.
chân chạy cánh bay 眞𧼋𦑃𱝧
đc. <Đạo> thú và chim. Huyền Thông Chân Kinh thiên Đạo nguyên viết: “Đạo cao không thể đo, sâu không thể lường, bao trùm trời đất, bẩm thụ vô hình, nguồn chảy ào ào, rỗng mà không đầy,…, ước giản mà có thể mở rộng, u ẩn mà có thể sáng rõ, nhu nhược mà có thể cương kiện, nuốt âm nhả dương, làm tỏ tam quang; núi vì thế cao, vực vì thế sâu, thú vì thế chạy, chim vì thế bay, lân vì thế chơi, phượng vì thế lượn, tinh tú vì thế đắp đổi.” (夫道者,高不可極,深不可測,苞裹天地,稟受無形,原流泏泏,沖而不盈,…,約而能張,幽而能明,柔而能剛,含陰吐陽,而章三光;山以之高,淵以之深,獸以之走,鳥以之飛,麟以之遊,鳳以之翔,星曆以之行). Chân chạy cánh bay, ai mỗ phận, thiên công nào có thửa tây che. (Tự thán 73.7).
chín chuyển hồng 𠃩轉紅
đgt. <Đạo> phép luyện cửu chuyển linh đơn 九轉靈丹 của đạo gia, nấu các hợp chất chín lần thì sẽ chuyển thành thuốc trường sinh màu hồng. Đây là hình ảnh thơ song quan, vừa ví von màu mào hạc đỏ tựa đan sa, lại vừa hàm ý màu mào ấy là biểu tượng của sự trường thọ. Đỉnh nhuốm đan sa chín chuyển hồng. (Dương 248.6).
cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân 𦹵撑𨴦養底𢚸仁
đc. <Đạo> Chu Mậu Thúc người đời Tống, thường để cỏ mọc tràn ngoài sân, không bao giờ phát quang, tự nói dữ tự gia ý tứ nhất ban, ý nói để cho cỏ xanh sinh trưởng tự nhiên cũng như ý tứ của mình vậy. [TVG, 1956: 33]. ở đây trỏ cảnh giới của ẩn sĩ, đạo tâm hoà nhập làm một với thiên tâm. Con người tuỳ thuận hoàn toàn theo quy luật của thiên nhiên cây cỏ.cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân, trúc rợp hiên mai quét tục trần.(Ngôn chí 12.1)
Dao Trì 瑤池
dt. <Đạo> nơi ở của Tây Vương Mẫu trên núi Côn Lôn. Sử Ký phần Đại uyển liệt truyện luận có đoạn: “Côn Lôn cao hơn hai ngàn năm trăm dặm, nơi nhật nguyệt cùng ngơi nghỉ mà giấu sáng. Trên đó có lễ tuyền và Dao Trì.” (崑崙其高二千五百餘里,日月所相避隱為光明也。其上有醴泉、瑤池). mục thiên tử truyện có đoạn: “Năm ất sửu, thiên tử dâng rượu cho Tây Vương Mẫu ở trên Dao Trì.” (乙丑,天子觴西王母於瑤池之上). Yến thửa Dao Trì đà có hẹn, chớ cho Phương Sóc đến lân la. (Đào hoa thi 231.3).
doanh hư 盈虛
tt. <Đạo> đầy vơi, được mất, thịnh suy, thành bại, trỏ hai mặt đối lập trong cuộc sống, đó là lẽ thường hằng của đại đạo (tự nhiên). Sách Trang Tử thiên Thu thuỷ ghi: “Xét rõ việc doanh hư rồi, thì có được cũng chẳng vui, có mất cũng chăng buồn” (察乎盈虚,故得而不喜,失而不憂). Lưu Thiệu đời Tam Quốc trong nhân vật chí viết: “cũng như đất trời khí hoá, được mất đầy vơi, ấy là cái quy luật của đạo vậy” (若夫天地氣化,盈虚損益,道之理也). Cát Hồng đời Tấn trong Bão Phác Tử ghi: “Hoạ phúc đan cài trong miền hư thực; hưng phế triền miên giữa khoảng đầy vơi.” (禍福交錯乎倚伏之間,興亡纏綿乎盈虚之會). Mới biết doanh hư đà có số, ai từng cải được lòng trời. (Tự thán 85.7, 104.2). x. tiêu trưởng.
giao 交
dt. <Đạo> giao đãi, giao tiếp, giao thiệp, giao tế. Quân tử nước giao, âu những lạt, Hiền nhân rượu thết, lọ là nồng! (Bảo kính 178.5). Dịch câu quân tử chi giao đạm nhược thủy. Sách Trang tử Thiên Sơn mộc có câu: "Vả, quân tử giao đãi nhạt như nước, tiểu nhân giao đãi ngọt như rượu nếp; quân tử nhạt mà thân, tiểu nhân ngọt mà đứt đoạn." 且君子之交淡若水,小人之交甘若醴;君子淡以親,小人甘以絕 thả quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ; quân tử đạm dĩ thân, tiểu nhân cam dĩ tuyệt).
gác phượng 閣鳳
dt. <Đạo> tức phượng các 鳳閣, có các nghĩa: lầu trong hoàng cung, trung thư sảnh, nhà quan ở trong kinh. Diếp còn theo tiên gác phượng, rày đà kết bạn sa âu. (Bảo kính 162.3). x. tiên gác phượng.
hay đủ hay dừng 咍杜咍停
Thng <Đạo> dịch câu tri chỉ tri túc tự lạc 知止知足自樂 (biết đâu là điểm dừng, biết đâu là đủ, thì sẽ tự vui). Trong tạo hoá có cơ mầu, hay đủ hay dừng, mới kẻo âu. (Bảo kính 153.2). Đạo Đức Kinh: “danh với thân, cái nào thiết thực hơn? thân với tài vật, cái nào nhiều hơn? được với mất, cái nào kém hơn? cho nên, thích lắm thì tốn lắm; chứa nhiều thì mất nhiều. Biết đủ thì chẳng nhục, biết dừng thì chẳng lỗi, có thể dài lâu.” (名與身孰親?身與貨孰多?得與亡孰病?是故甚愛必大費;多藏必厚亡。知足不辱,知止不殆,可以長久).
khách ăn thông 客咹椿
dt. <Đạo>. Dịch chữ khất tùng khách 吃松客. Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch, non xuân từng bạn khách ăn thông. (Lão hạc 248.4). Sách Liệt Tiên Truyện có ghi chuyện về ẩn sĩ Xích Tu Tử 赤須子 người đời Tần mục công, thích ăn quả thông, thiên môn đông, thạch chỉ; răng rụng lại mọc, tóc rụng lại lên, uống ráng chiều, không ăn ngũ cốc. Nên có thơ rằng: “xích tu bỏ đất phong, thích ở núi ngô thôi. Các thuốc đều đã uống, dáng già mà lại tươi.” (赤須去豐,愛憩吴山。 三藥并御,朽貌再鮮 xích tu khứ phong, ái khế ngô san. Tam dược tịnh ngự, hủ mạo tái tiên). Truyện này cũng chép một vị ẩn sĩ khác là ốc thuyên, làm nghề hái thuốc, thích ăn quả thông, đầy mình mọc lông vũ, hai mắt lanh lợi, có thể bay đuổi theo ngựa. Nên có thơ rằng: “Ốc Thuyên ăn tùng, mình nhẹ mắt trong, nhón chân loan phượng, chạy vượt ngựa giong.” (偓佺餌松,体逸眸方。足躡鸞鳳,走超騰驤 ốc thuyên nhĩ tùng, thể dật mâu phương. Túc niếp loan phượng, tẩu siêu đằng nhương).
Man Xúc 蠻觸
◎ Phiên khác: men móc (TVG). Nay theo ĐDA.
dt. đc. <Đạo> nước man và nước xúc. Trang Tử thiên Tắc dương có đoạn: “Có một nước nằm bên sừng trái của con sên tên là xúc thị, lại có một nước khác nằm ở bên phải sừng con sên tên là man thị, tranh đất đánh nhau suốt, chết mất mấy vạn.” (有國於蝸之左角者曰觸氏,有國於蝸之右角者曰蠻氏,時相與爭地而戰,伏尸數萬), đời sau gọi đó là Man Xúc tương trì. ‖ Nguyễn Trực trong bài Ngẫu hứng có câu: Man Xúc tâm hôi tục lữ hưu (tro lòng Man Xúc đã tắt trong kẻ lữ khách). . Lòng người Man Xúc nhọc đua hơi, chẳng cốc nhân sinh gưởi chơi. (Tự thán 85.1).
quán khách 館客
dt. <Đạo> nhà trọ, dịch chữ nghịch lữ 逆旅. Sách Trang Tử có câu: “Dương Tử đến đất tống, vào nghỉ trong một nhà trọ.” (陽子之宋,宿於逆旅). Trang Tử thiên Tri bất du có câu: “buồn vui đến, ta chẳng thể kìm ngự được, vui buồn đi ta chẳng thể dừng được. Buồn thay! thế nhân thực là quán trọ của vật.” (哀樂之來,吾不能禦,其去弗能止。悲夫!世人直為物逆旅耳!) sách Liệt Tử thiên Trọng ni có đoạn: “Long Thúc nói với Văn Chí rằng: ‘thuật của ngài thực vi diệu. Ta có tật, ngài có thể chữa được chăng?’ Văn Chí rằng: ‘chỉ nên nghe theo mệnh mà thôi. Nhưng trước hết ngài hãy nói về cái bệnh của ngài’. Long Thúc rằng: ‘quê tôi có tiếng tăm nhưng chẳng coi đó là vẻ vang, nước tôi mất cũng chẳng coi đó là nhục; được mà chẳng vui, mất mà chẳng buồn; coi sống như chết, coi giàu như nghèo, coi người như lợn, coi mình như người. Ta ở trong nhà mình, cũng như ở nơi quán trọ; coi làng nước ta cũng như nước của dân mọi rợ. [lại thêm] những bệnh như vầy: tước thưởng chẳng thể khuyến khích ta, hình phạt chẳng thể làm uy với ta, thịnh suy lợi hại chẳng thể làm ta lay động, vui buồn chẳng thể làm ta chuyền rời’. Cho nên, ta chẳng thờ vua, chăng chơi bè bạn, chẳng rèn vợ con, chăng đe nô bộc. Đó chẳng phải là bệnh sao? cách gì có thể chữa được? Văn Chí bèn bảo Long Thúc đứng xây lưng về phía ánh sáng. Văn Chí lại từ phía sau nhìn ra phía ánh sáng, rồi nói rằng: ‘ôi! ta nhìn thấy tim ngài rồi, đó là tấc lòng trống rỗng, cơ hồ như lòng thánh nhân vậy! tim ngài sáu lỗ lưu thông, một lỗ cũng chẳng tắc. Nay ngài coi cái thánh trí là bệnh, là có cái nguyên do của nó vậy! cái thuật mọn của tôi chẳng thể chữa được đâu’.” (龍叔謂文摯曰:“子之術微矣。吾有疾,子能已乎?”文摯曰:“唯命所聽。然先言子所病之正。”龍叔曰:“吾鄉譽不以為榮,國毀不以為辱;得而不喜,失而弗憂;視生如死,視富如貧,視人如豕,視吾如人。處吾之家,如逆旅之舍;觀吾之鄉,如戎蠻之國。凡此眾疾,爵賞不能勸,弄罰不能威,盛衰利害不能易,哀樂不能移. 固不可事國君,交親友,御妻子,制仆隸。此奚疾哉?奚方能已之乎?”文摯乃命龍叔背明而立。文摯自後向明而望之,既而曰:“嘻!吾見子之心矣,方寸之地虛矣,幾聖人也!子心六孔流通,一孔不達。今以聖智為疾者,或由此乎!非吾淺術所能已也). Lý Bạch trong bài Xuân dạ yến đào viên tự có câu: phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ (ôi trời đất là quán trọ của muôn vật vậy). Liều cửa nhà xem bằng quán khách, đam công danh đổi lấy cần câu. (Mạn thuật 30.3).
Thiên Thai 天臺 / 天台
dt. <Đạo> sách Cổ Tiểu Thuyết Câu Trầm chép sách U Minh Lục như sau: đời vua Hán Minh Đế, Lưu Thần 劉晨 và Nguyễn Triệu 阮肇 ở huyện Diễm 剡 cùng vào núi Thiên Thai, lạc đường không về được, ba mươi ngày hái quả đào núi mà ăn. Khi xuống suối uống nước, thấy mấy nhành lá vàng còn tươi chảy từ thượng nguồn xuống, hai người nói: ở chỗ này có người. Bèn lội suối vòng qua một quả núi, thì thấy hai người con gái xinh đẹp Hai nàng hỏi từ đâu đến mà muộn vậy. Nhân đó làm cơm rượu khoản đãi, rồi lưu lại chơi nửa năm. Hai người khi về đến nhà thì con cháu đã đến bảy đời rồi. Thiên Thai hái thuốc duyên gặp, Vị Thuỷ gieo câu tuổi già. (Thuật hứng 54.5). Việt Nam có một số địa danh phỏng theo điển này.
tiêu trưởng 消長
đgt. tt. <Đạo> tăng giảm, thịnh suy, tiêu mất và phương trưởng trỏ hai sự đối lập. Tô Thức trong tiền xích bích phú có đoạn: “Khách cũng chẳng biết nước với trăng ư? trôi đi như nước kia chưa từng dừng lại; đầy vơi như trăng đó, có mất đi đâu.” (客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虚者如彼,而卒莫消長也). Tự nhiên đắp đổi đạo trời, tiêu trưởng doanh hư một phút dời. (Tự thán 104.2). x. doanh hư.
trường sinh 長生
đgt. <Đạo> sống mãi, bất tử. Trẻ dầu chơi con tạo hoá, già lọ phục thuốc trường sinh. (Tự thán 78.6)‖ (Tùng 220.2)‖ (Hoàng tinh 234.4).
vô tâm 無心
tt. <Phật>, <Đạo> không có chủ ý. Đào Tiềm có câu: “mây vô tâm mà nhô ra trên đỉnh núi” (雲無心以出岫 vân vô tâm dĩ xuất tụ). Thơ đới tục hiềm câu đới tục, chủ vô tâm ỷ khách vô tâm. (Ngôn chí 5.6)‖ (Thuật hứng 70.4)‖ (Tự thán 78.3).
đạo trời 道𡗶
dt. <Đạo> quy luật tự nhiên, dịch chữ thiên đạo 天道. Tự nhiên đắp đổi đạo trời, tiêu trưởng doanh hư một phút dời. (Tự thán 104.1). x. tiêu trưởng doanh hư.